Làng nghề không chỉ là sinh kế mà còn là “căn tính văn hóa” của người Việt. Trong bối cảnh công nghiệp văn hóa phát triển mạnh mẽ, việc bảo tồn và đổi mới làng nghề trở thành chìa khóa để vừa giữ gìn bản sắc, vừa khẳng định vị thế trên thị trường quốc tế.
Bản sắc văn hóa trong từng sản phẩm thủ công
Với hơn 5.400 làng nghề và làng có nghề, trong đó trên 1.800 làng nghề truyền thống được công nhận, Việt Nam sở hữu một kho tàng thủ công mỹ nghệ vô giá. Mỗi sản phẩm từ gốm Bát Tràng, lụa Vạn Phúc, tranh Đông Hồ, nón lá Huế, hoa giấy Thanh Tiên, hay đan cói Ninh Bình… không chỉ đơn thuần là hàng hóa mà còn là câu chuyện văn hóa, là kết tinh của lịch sử, phong tục và thẩm mỹ vùng miền.
Ngày nay, khi được nhìn nhận dưới góc độ công nghiệp văn hóa, giá trị của làng nghề càng rõ nét hơn. Nhiều sản phẩm thủ công Việt Nam đã có chỗ đứng vững vàng ở thị trường quốc tế, góp mặt trong các hội chợ lớn tại châu Âu, Mỹ, Nhật Bản… Điều này cho thấy sức hút của văn hóa Việt khi được chuyển hóa thành sản phẩm có giá trị thương mại và văn hóa.
Không chỉ tạo nguồn thu nhập cho hàng triệu lao động nông thôn, làng nghề còn là điểm đến hấp dẫn của du khách trong và ngoài nước. Một chuyến tham quan Bát Tràng hay dạo bước ở Vạn Phúc không chỉ là hành trình mua sắm mà còn là trải nghiệm trực tiếp tinh hoa văn hóa bản địa. Làng nghề, vì vậy, không chỉ là trụ cột của kinh tế nông thôn mà còn trở thành tài sản chiến lược trong phát triển công nghiệp văn hóa Việt Nam.
Theo nhà nghiên cứu Ngô Hương Giang, giá trị của làng nghề không chỉ nằm ở sản phẩm hữu hình mà còn ở căn tính văn hóa được hun đúc qua nhiều thế hệ. Giữ gìn giá trị gốc ấy chính là nền tảng để phát triển những sản phẩm mới phù hợp với thẩm mỹ hiện đại nhưng vẫn mang dấu ấn truyền thống.
NSND Vương Duy Biên – nguyên Thứ trưởng Bộ VHTTDL – cũng khẳng định: “Trong cấu trúc công nghiệp văn hóa, nghề thủ công mỹ nghệ giữ vai trò quan trọng. Phát triển làng nghề chính là cách bảo tồn và lan tỏa bản sắc văn hóa dân tộc”.
Thách thức và yêu cầu đổi mới trong bối cảnh mới
Quạt tre thủ công của làng Chàng Sơn.
Dù có tiềm năng lớn, sự phát triển của làng nghề trong dòng chảy công nghiệp văn hóa vẫn gặp không ít khó khăn. Trước hết là sản xuất còn manh mún, thiếu tính chuyên nghiệp, khó đáp ứng các tiêu chuẩn khắt khe của thị trường quốc tế. Nhiều cơ sở chạy theo số lượng, giản lược khâu thủ công khiến sản phẩm mất đi tính độc bản và giá trị “handmade” vốn có.
Bài toán thương hiệu cũng là trở ngại lớn. Nhiều sản phẩm làng nghề dù độc đáo nhưng chưa được định vị rõ ràng, dễ bị lẫn với hàng công nghiệp hoặc hàng nhái. Thiếu liên kết giữa hộ sản xuất, doanh nghiệp và du lịch khiến khó hình thành chuỗi giá trị bền vững.
Nguồn nhân lực kế cận cũng đang báo động. Lớp trẻ ít mặn mà nối nghề do thu nhập bấp bênh, trong khi lớp nghệ nhân cao tuổi ngày một thưa dần, dẫn tới nguy cơ đứt gãy truyền nghề. Thêm vào đó, chi phí nguyên liệu tăng cao, vốn đầu tư hạn hẹp, công nghệ lạc hậu, cùng vấn đề ô nhiễm môi trường tại nhiều làng nghề đang làm chậm bước tiến của ngành thủ công mỹ nghệ.
Ông Trịnh Quốc Đạt – Chủ tịch Hiệp hội Làng nghề Việt Nam – nhận định: “Để tạo ra sản phẩm thủ công giá trị, người thợ phải bỏ nhiều công sức, trong khi chi phí nguyên liệu tăng khiến khả năng cạnh tranh giảm sút. Nếu không đổi mới kỹ thuật và mẫu mã, làng nghề khó tồn tại lâu dài”.
Các chuyên gia cho rằng, giải pháp cho làng nghề là kết hợp giữa nghệ nhân và nhà thiết kế. Nghệ nhân giữ kỹ thuật truyền thống, còn nhà thiết kế mang đến sáng tạo và xu hướng mới. Sự phối hợp này giúp sản phẩm vừa hợp thị hiếu hiện đại, vừa giữ bản sắc dân tộc. Đồng thời, ứng dụng công nghệ hiện đại vào sản xuất để giảm sức lao động nặng nhọc nhưng vẫn giữ “linh hồn” thủ công là yêu cầu tất yếu.
NSND Vương Duy Biên nhấn mạnh: “Công nghệ có thể hỗ trợ, nhưng không thể thay thế tinh thần thủ công vốn là linh hồn của làng nghề. Điều quan trọng là phải đảm bảo sự tiếp nối truyền nghề giữa các thế hệ, giữ trọn vẹn tinh thần sáng tạo của cha ông”.
Làng Chuông sở hữu bề dày lịch sử hơn 300 năm nổi tiếng với những chiếc nón lá tinh xảo, duyên dáng. Ảnh: ST
Bảo tồn giá trị và kiến tạo tương lai
Phát triển làng nghề trong bối cảnh công nghiệp văn hóa không chỉ là bài toán kinh tế, mà còn là trách nhiệm bảo tồn văn hóa dân tộc. Để làng nghề phát triển bền vững, cần có sự vào cuộc đồng bộ của Nhà nước, doanh nghiệp và cộng đồng.
Chính quyền địa phương cần có chính sách hỗ trợ về vốn, hạ tầng, môi trường; đồng thời khuyến khích sáng tạo, xây dựng thương hiệu, mở rộng kênh phân phối và gắn kết sản xuất với du lịch trải nghiệm. Bên cạnh đó, cần khơi dậy tình yêu nghề trong thế hệ trẻ, tạo cơ chế đãi ngộ thỏa đáng để họ yên tâm gắn bó với nghề.
Theo ông Đạt, sản phẩm thủ công muốn đứng vững ở thị trường quốc tế phải vừa bắt kịp xu hướng, vừa giữ được bản sắc riêng biệt. Chỉ khi mang trong mình dấu ấn văn hóa, sản phẩm mới có giá trị bền lâu và tạo được khác biệt.
Có thể thấy, làng nghề truyền thống Việt Nam đang đứng trước cả cơ hội và thách thức lớn. Nếu biết tận dụng lợi thế văn hóa, đồng thời cải tiến sản xuất, mở rộng thị trường, các làng nghề không chỉ tồn tại mà còn trở thành động lực quan trọng cho công nghiệp văn hóa – một ngành kinh tế sáng tạo giàu tiềm năng trong tương lai./.
Theo Tạp chí Làng nghề Việt Nam